Thái tử mang thương tích, cần dùng nhiều thực phẩm giàu đạm để bổ thân.
Trước khi Lư thẩm từ ruộng về, Tần Tranh đã cho giò heo cùng đậu nành vào nồi hầm.
Giò heo được chần qua nước sôi, sau đó còn riêng biệt thắng đường cho lên màu trước khi hầm cùng đậu. Trong nồi sôi ùng ục, từng khúc giò nhỏ óng ả màu nâu cánh gián, đậu nành hầm chín thì tròn trịa, mềm mướt, hương thơm béo ngậy bốc lên cùng hơi nóng, lan tỏa đầy gian bếp.
Lúc dùng bữa, Tần Tranh chú ý thấy Thái tử ăn nhiều hơn ngày thường nửa bát cơm, xem ra món đậu hầm giò này quả thực hợp khẩu vị hắn.
Ăn xong, khi Tần Tranh chuẩn bị ra ngoài theo lời hẹn với Lâm Chiêu thì Thái tử đột nhiên lên tiếng hỏi:
“Thang thuốc sáng nay, nàng không theo phương thuốc ta dặn mà sắc?”
Bước chân Tần Tranh khựng lại một thoáng, nàng xoay lưng với hắn, trầm mặc giây lát rồi mới đáp:
“Thiếp đã hỏi qua đại phu. Đại phu nói rằng cứ một mực tăng dược tính, tuy hiệu quả mau chóng nhưng lâu dài lại hại thân. Tướng công, tương lai còn dài, chúng ta hiện tại có đủ thời gian, chi bằng cứ theo phương thuốc của đại phu mà từ từ điều dưỡng.”
Thang thuốc vị đắng nồng nặc, Tần Tranh đoán Thái tử chỉ dựa vào mùi vị không phân biệt nổi được thay đổi về liều lượng, chắc là đến khi mở gói thuốc, thấy dược tính không bằng hôm qua mới nhận ra nàng đã đổi phương thuốc.
Nói xong, Thái tử không lên tiếng nữa, Tần Tranh cũng đoán không được hắn đang nghĩ gì, đành nói:
“A Chiêu còn đang đợi thiếp, thiếp xin đi trước.”
Nàng nhấc chân bước ra khỏi phòng, gió xuân từ ngoài sân thổi qua hành lang, ngoài cửa một cây hoè già hoa rụng như tuyết, vài cánh hoa theo gió bay vào trong, rơi xuống bậc cửa. Lúc váy xanh đậm của Tần Tranh lướt qua ngưỡng cửa, cũng nhẹ nhàng quét đi vài cánh hoa ấy. Một mái tóc đen mượt như mực khẽ lay động theo gió, tựa như mặt nước xuân khẽ gợn từng vòng sóng nhỏ.
Thái tử nhìn bóng lưng nàng rời đi, ánh mắt thoáng ngẩn ngơ.
Sống hai đời người, đây là lần đầu tiên có người lo lắng thân thể hắn không chịu nổi dược lực.
Năm tháng chinh chiến, hắn từng chịu vô số vết thương lớn nhỏ, mà trên chiến trường, cơ hội chỉ trong khoảnh khắc, ai nấy đều đẩy hắn tiến về phía trước, xưa nay chưa từng có ai nói với hắn rằng “có thể chậm lại”.
Để chóng lành thương, hắn luôn dùng thuốc mạnh nhất.
Thái tử nhìn ánh xuân ngoài khung cửa, ánh sáng chan hòa ấm áp, tựa hồ… kiếp này có thể chậm rãi một chút cũng được.
Ngón tay hắn vô thức muốn mân mê vật gì đó, nhưng lại chỉ chạm vào khoảng không—cổ tay hắn giờ chẳng còn gì.
—Chuỗi hạt bồ đề đã theo hắn xuống mồ, chôn cùng hắn trong hoàng lăng kiếp trước.
…
Tần Tranh vừa rời khỏi viện không bao xa, đã thấy Lâm Chiêu và Hỷ Tước xách hộp cơm đứng đợi nơi đầu đường.
Thấy nàng mang theo một chiếc sọt tre nhỏ, tay cầm thêm cái cuốc, Lâm Chiêu cười hí hửng:
“A Tranh tỷ đúng là thế nào cũng đẹp!”
Tần Tranh trừng mắt lườm nàng:
“Thôi đi, đừng chọc ghẹo nữa, mau lên đường thôi.”
Đã nói là ra ngoài đào cỏ đuổi rắn thì hình thức cũng phải làm cho giống.
Lâm Chiêu muốn để Hỷ Tước cầm giúp Tần Tranh mấy món đồ, nhưng thấy hai chủ tớ nàng đều xách hộp cơm khá nặng, Tần Tranh bèn từ chối, nói sọt tre và cuốc đều không nặng lắm.
Trời trong mây sáng, cỏ cây núi rừng tươi tốt, chim chóc hót vang không dứt, khiến sơn trại giống hệt như một nơi đào nguyên tiên cảnh.
Lần vào trại trước, Tần Tranh bị bịt mắt nên không rõ lối, lần này theo chân Lâm Chiêu ra khỏi trại, mới thực sự kinh ngạc—núi Hai Đập quả đúng là một hiểm địa.
Bên trong núi Hai Đập là một thiên cốc khổng lồ, vách hố cao tới mấy chục trượng, toàn là vách đá dốc đứng, không có lấy một nhành cỏ. Người xưa đã cho xây một đoạn trạm đạo trên vách đá ấy để liên thông với thế giới bên ngoài.
Tần Tranh chú ý thấy trạm đạo ở đây sử dụng kết cấu “dầm chịu lực kiểu xiên”, tức là đục lỗ ngang trong vách đá để đóng thanh gỗ ngang làm dầm, sau đó ở phía dưới đục thêm lỗ nghiêng theo chiều đứng, chôn một đầu của cột đứng vào đó, đầu còn lại chống đỡ dầm ngang, tạo thành một điểm tựa hình tam giác, nhờ vậy mới đạt được độ ổn định.
Tần Tranh từng nghe nói, trạm đạo cổ xưa thậm chí có thể cho xe ngựa đi lại, ban đầu được xây nhằm phục vụ việc vận chuyển lương thảo, chẳng khác gì “đường cao tốc” thời cổ đại.
Trước kia nàng cũng từng đi du ngoạn mấy danh thắng có trạm đạo nổi tiếng. Nhưng những nơi đã được tu sửa và phục dựng đời sau, so với trạm đạo hiện ra trước mắt này, lại chẳng đem đến được cảm giác chấn động nào.
Trạm đạo này rộng đến mức đủ cho bốn người cùng đi song song, ở những đoạn vách đá dốc thoải, người xưa đã san bằng sườn đá để xây thành đường bờ—một kiểu trạm đạo kiên cố hơn.
Tần Tranh đặt tay lên lan can gỗ bên trạm đạo, cảm khái không thôi:
“Tổ tiên ta quả thực trí tuệ, để lại cho hậu thế vô vàn lợi ích.”
Ngành kiến trúc hậu thế không ngừng phát triển, nhưng so với những công trình được hoàn thành bằng kỹ thuật cao, thì những trạm đạo được tạo nên bằng công cụ thô sơ nơi thời đại canh cày vất vả này, lại chẳng hề kém cạnh về sự kỳ vĩ.
Lâm Chiêu hiển nhiên hiểu sai ý, vẻ mặt đầy tự hào:
“Đúng vậy! Nghe người già trong trại kể, khi Đại Sở còn chưa lập quốc, dưới núi dân không đủ ăn mặc, những vị hầu gia, tướng quân đánh qua đánh lại mười mấy năm chẳng có ngày yên ổn. Sau đó người Bắc Nhung xâm phạm, thậm chí từng chiếm cả hoàng thành Biện Kinh. Lũ Bắc Nhung ấy hung tàn vô độ, coi dân ta chẳng khác gì súc sinh, giết là giết, đốt là đốt, tàn sát làng xóm, thôn trấn. Khi ấy tổ tiên nhà họ Lâm mới dắt tộc nhân lánh đến núi Hai Đập, nhờ địa thế hiểm yếu nơi đây mà Kỳ Vân Trại không bị chiến hỏa lan đến.”
Tần Tranh chỉ mỉm cười, không tiếp lời.
Lâm Chiêu nhớ đến cảnh loạn hiện tại dưới núi, thở dài một tiếng:
“Ba trăm năm trước, nhờ Vũ Gia Đế phá vạn quân, dẹp loạn thế gian, nay thiên hạ lại sắp sửa loạn lạc chẳng biết kéo dài đến bao giờ.”
Nàng đá mấy hòn đá dưới chân, giọng phẫn uất:
“Người ta vẫn nói long sinh long, phụng sinh phụng, con chuột sinh ra biết đào hang. Chỉ tiếc Vũ Gia Đế không có hậu nhân, nếu con cháu của người còn tồn tại, thì thiên hạ này nào đến lượt bọn Lý gia ở Kỳ huyện xưng đế ở Biện Kinh!”
Tần Tranh nhớ tới người trong trại còn có một vị hậu duệ xa của Vũ Gia Đế, bất giác hơi chột dạ, đành đáp lấy lệ:
“Triều đại hưng vong, vốn do thiên mệnh. Nhưng chịu khổ vẫn là lê dân bá tánh.”
Lâm Chiêu ngắt một cọng cỏ đuôi chó cho vào miệng nhai, nói:
“Lại sắp đến mùng bảy tháng tư, ngày sinh của Vũ Gia Đế rồi. Những năm trước, vào thời điểm này, người đổ đến chùa Vân Cương thắp hương đông như trẩy hội, chùa còn mở hội miếu, náo nhiệt chẳng kém gì năm mới. Nhưng giờ đây, chắc chẳng còn được như xưa nữa.”
Dẫu sao, Đại Sở đã diệt vong.
Tần Tranh lấy làm lạ:
“Sinh thần của Vũ Gia Đế thì liên quan gì đến hội miếu ở chùa Vân Cương?”
Lâm Chiêu ngạc nhiên nhìn nàng:
“Chẳng lẽ A Tranh tỷ không biết? Vũ Gia Đế vốn là tục gia đệ tử của chùa Vân Cương! Người sinh ra trong vọng tộc đất Long Tây, nhưng vừa chào đời đã khắc chết mẫu thân. Nghe nói mệnh phạm Thất Sát, chưa đầy một tuổi đã bị phụ thân đưa vào chùa tu hành, mười tám năm không rời chùa, chưa từng gặp thân nhân, cho đến khi Bắc Nhung xâm chiếm Trung Nguyên, người mới xuống núi nhập ngũ.”
Lâm Chiêu từ nhỏ hiếu võ, dễ nhận ra nàng vô cùng sùng bái Vũ Gia Đế:
“Người vừa xuống núi đã hợp nhất Long Tây và Long Đông, kế đó tiến binh Bắc thượng, thu phục Hoài Dương, chiếm Kinh Châu, đánh thủ khẩu quan, đoạt Hoa Tây đạo, thế như chẻ tre, đánh cho Bắc Nhung đại bại, tháo chạy về phương Bắc! Sau khi thống nhất phương Bắc, người lại tiến binh phương Nam, hàng phục Hoài Âm hầu, đánh lui tộc Di Tây Lăng, tiêu diệt mười vạn quân Vu Man!”
Nói đến đoạn hưng phấn, mặt Lâm Chiêu cũng đỏ lên, cuối cùng lại chùng xuống, tiếc nuối:
“Chỉ tiếc thiên mệnh ghen tài, Vũ Gia Đế lên ngôi chưa đầy một năm đã bệnh mà băng hà. Dân gian đều nói, người là võ thần chuyển thế, dẹp yên loạn thế xong liền quay về trời. Để tưởng nhớ người, khắp nơi đều xây Võ Đế miếu để thờ phụng. Riêng chùa Vân Cương vốn nằm trong địa phận Thanh Châu, nên Thanh Châu không lập miếu riêng, mà hằng năm vào sinh thần của người, dân chúng đều đổ về chùa thắp hương.”
Nghe Lâm Chiêu nói bao chuyện về Vũ Gia Đế, Tần Tranh cuối cùng cũng hiểu vì sao người này lại có địa vị cao trong lòng dân Đại Sở đến vậy. Không trách trong nguyên tác, phản quân muốn củng cố quyền lực đã không từ thủ đoạn, thậm chí còn bịa đặt Thái tử phi là yêu cơ hại nước để bôi nhọ hoàng thất Đại Sở.
Tần Tranh cảm khái:
“Tại vị chưa đầy một năm mà vẫn được nhân dân yêu mến như thế, chỉ riêng công trạng chinh chiến đã xứng danh một vị đế vương nghìn thu rồi.”
Lâm Chiêu gật đầu chắc nịch:
“Nếu muội sinh sớm mấy trăm năm, nhất định phải xin làm nữ tướng dưới trướng Vũ Gia Đế!”
Tần Tranh bật cười:
“Giờ thiên hạ cũng loạn, biết đâu một ngày kia muội thật sự trở thành nữ tướng cũng nên.”
Lâm Chiêu lại hừ lạnh:
“Muội chẳng thèm làm nữ tướng cho mấy cái loại vương hầu chỉ biết tranh đoạt nội bộ! Bắc Nhung đánh tới Hành lang Hà Tây rồi mà bọn họ chẳng dám hó hé. Lý Tín cũng chẳng phải người tốt đẹp gì, binh lính dưới trướng hắn đi tới đâu cướp bóc tới đó, còn tệ hơn cả thổ phỉ! Bán mạng vì bọn họ, không đáng!”
Đang trò chuyện, cả hai đã đi qua một hang đá phía trước, ra tới bức vách ngoài của núi Hai Đập, Tần Tranh nhìn thấy chiếc ròng rọc mà hôm đó nàng từng ngồi lên. Có hơn chục hán tử áo đơn canh giữ nơi ấy, vừa thấy Lâm Chiêu, một nửa số người liền đứng dậy, ôm quyền hành lễ:
“Đại tiểu thư!”
Khi nhìn thấy Tần Tranh, họ chỉ thoáng liếc qua, không tỏ vẻ gì lạ lẫm.
Số còn lại tuy cũng đứng dậy, nhưng thái độ lại cực kỳ khinh suất. Khi hành lễ với Lâm Chiêu, lời nói không ra hồn, có kẻ còn ngậm que tăm trong miệng, ánh mắt phóng túng nhìn chằm chằm Tần Tranh từ đầu đến chân.
Lâm Chiêu lạnh lùng liếc qua bọn họ:
“Chán sống rồi hả? Để ta móc mắt các ngươi ra xem có chịu nổi không!”
Bị Lâm Chiêu quát như thế, đám người kia mới chịu thu lại ánh mắt.
Lâm Chiêu xoay người lại, nói với mấy hán tử đã ôm quyền hành lễ với nàng:
“Hạ dây cáp đi, ta mang cơm cho ca ca.”
Mấy người kia liền khởi động cơ quan, giữa tiếng kim loại chuyển động ầm ầm, tấm sàn sắt chứa dây kéo dần được đẩy ra khỏi vách đá, tạo thành một bệ đỡ lơ lửng—Tần Tranh nhìn thấy, trong lòng thầm nhủ, quả nhiên đúng như nàng suy đoán ban đầu.
Vì mang theo bốn hộp cơm to bằng mâm hấp, rất chiếm chỗ, nên đám hán tử ấy hạ xuống ba chiếc giỏ ròng rọc cùng lúc.
Bộ phận kéo dây là một cơ cấu trục lớn, tương tự như trục quay gầu nước nơi giếng làng, mấy đại hán thay nhau xoay trục, từng vòng, từng vòng dây được thả xuống, ròng rọc cũng từ từ hạ thấp.
Rời khỏi cửa hang một đoạn, Lâm Chiêu mới hạ giọng nói:
“A Tranh tỷ đừng bận tâm, lối vào này xưa nay đều do người Đông trại và Tây trại cùng trông giữ, đám người Tây trại biết bên này xây trạm kiều gặp chuyện, đang đợi ca ca muội tới cầu cạnh nên càng lộng hành.”
Tần Tranh mỉm cười ôn hòa:
“Không sao cả.”
Chúng có thể ngạo mạn lúc này, còn về sau… chưa chắc đã cười nổi.
Giỏ vừa chạm đất, Tần Tranh leo ra trước, rồi cùng Lâm Chiêu và Hỷ Tước khiêng hộp cơm ra ngoài.
Nàng nhận ra nơi này là một hang đá nhân tạo lộ thiên, ngẩng đầu lên có thể thấy trời, nhưng bên ngoài vẫn còn một tầng vách núi che khuất. Dưới chân là bậc đá được đục từ chính sườn núi, đi theo lối bậc ấy qua một hang đá đầy dây leo, bên kia mới chính là bến nông mà chiếc thuyền lớn hôm đó đã cập bến.
Lúc này trên bến cát chất đầy gỗ và đất đá, mặt đất vốn bằng phẳng bị đào thành từng hố lớn cách nhau một trượng, nhưng vì mưa lớn đêm qua cộng với nền đất là cát, nên đã sụt lở, bề ngoài trông lộn xộn vô cùng, trong đáy hố vẫn còn đọng nước.
Lâm Diêu cùng mười mấy hán tử Đông trại, người nào người nấy cởi trần, quần xắn cao, tay cầm cuốc sắt đang đào xới gì đó, mặt mũi lấm lem bùn đất.
Truy cập prostab2016.org để đọc trọn bộ...
Lâm Chiêu đặt hộp cơm lên một bãi đất trống, lớn tiếng hô:
“Ngừng tay, ngừng tay nào, tới giờ ăn cơm rồi!”
Nghe gọi đến ăn, đám hán tử mới chịu dừng tay. Thấy người mang cơm là các cô nương, ai nấy đều nhanh chóng mặc áo vào, rồi từng tốp nhỏ đến bờ sông rửa sạch tay.
Thấy Tần Tranh đi theo, ánh mắt không ít người dừng lại nơi nàng và Lâm Diêu, quan sát đầy ý vị.
Vương Bưu tay cầm bánh bao, tay kia cầm bát cháo, cùng mấy huynh đệ quen thân ngồi xổm thành một vòng nhỏ, vừa ăn vừa liếc nhìn về phía Tần Tranh:
“Các huynh nói xem, cô nương kia theo tới làm gì?”
Đám hán tử chỉ lo ăn, đồng loạt lắc đầu.
Vương Bưu huých cánh tay kẻ ngồi cạnh, khẽ mắng:
“Mấy người đúng là một lũ ham ăn, chỉ biết có ăn với uống.”
Vừa nói, hắn lại liếc sang chỗ Tần Tranh, thấy Lâm Diêu đang bước tới gần nàng, không khỏi híp mắt:
“Các huynh đoán xem, có khi nào cô nương kia phải lòng đại ca nhà mình rồi chăng?”
Một người khẽ đáp:
“Không thể đâu, phu quân của người ta trông tuấn tú biết bao, võ nghệ cũng chẳng kém đại ca chúng ta!”
Vương Bưu liền gõ vào đầu hắn một cái, mắng:
“Nói bậy gì vậy, đại ca chúng ta mới gọi là tuấn tú! Cái tên mặt trắng kia trông ốm yếu như sắp chết tới nơi, sao sánh được với đại ca!”
Kẻ bị gõ đầu vừa xoa đầu vừa lẩm bẩm:
“Giai nhân người ta không thích kiểu như đại ca đâu…”
Vương Bưu lại giơ tay định đánh tiếp, hắn ta sợ hãi ôm bát, cầm bánh bao chuồn sang ngồi chỗ khác.
Việc Tần Tranh có mặt ở đây, quả thực khiến Lâm Diêu hơi bất ngờ.
Đêm qua mật đàm, vị công tử họ Trình kia tuy chưa tiết lộ thân phận, nhưng vài kế sách hắn nói ra khiến Lâm Diêu đến giờ vẫn cảm thấy rợn người, càng thêm chắc chắn thân phận của hai phu thê kia không hề đơn giản. Vì vậy, hắn đã đặc biệt dặn người trong trại phải đối đãi bọn họ với sự kính trọng đặc biệt.
Lúc này thấy Tần Tranh đến, hắn lo là do Lâm Chiêu tùy hứng dẫn theo, bèn vội vàng bước tới, chắp tay thi lễ:
“Trình phu nhân sao lại hạ cố đến nơi dơ bẩn thế này?”
Lâm Chiêu nhanh miệng thay nàng đáp:
“A Tranh tỷ muốn đào mấy gốc cỏ đuổi rắn về trồng, nhưng lại không nhận ra được cỏ ấy, muội nhớ khu này có nên gọi tỷ ấy cùng đi.”
Lâm Diêu liền sa sầm mặt:
“Láo xược! Lúc quay về chẳng phải tiện tay hái là được, việc gì phải để người ta đích thân theo cùng?”
Tần Tranh sợ Lâm Diêu trách mắng Lâm Chiêu vì chuyện nàng biết đường lên núi, bèn vội nói:
“Trại chủ chớ trách A Chiêu, là ta tò mò, muốn theo tới nhìn một chút thôi.”
Nàng đã lên tiếng giải vây, Lâm Diêu cũng không tiện trách móc muội mình nữa, chỉ dặn nàng sớm đưa Tần Tranh trở về, rồi nhận bánh bao và khoai lang, đi về phía đám Vương Bưu.
Bọn họ đang ngồi thành một vòng khuyết, Lâm Diêu vừa ngồi xuống, liền khéo lấp đầy chỗ trống còn lại của vòng tròn ấy.
Bị mắng một trận như thế, đám người kia mới chịu thu lại ánh nhìn vô lễ.
Vương Bưu nghiêng người về phía Lâm Diêu, hạ thấp giọng hỏi:
“Đại ca, cô nương kia đến đây làm gì? Cùng đến đưa cơm sao?”
Lâm Diêu liếc hắn một cái:
“Đến đào cỏ đuổi rắn.”
Vương Bưu nghe xong, hơi thất vọng “ồ” một tiếng.
Nhân lúc đám hán tử đang ăn cơm, Tần Tranh liền theo Lâm Chiêu ra khu vực đào móng cầu để xem xét kỹ hơn.
Quả đúng như nàng dự đoán từ trước.
Chỗ này gần dòng sông, đất ẩm mềm, lại không có đào dốc thoát nước, càng không có rãnh dẫn lưu. Nước vào trong hố móng là dễ sụt lở, mà xem chừng độ sâu của hố móng ban đầu là dựa theo tiêu chuẩn dành cho đất khô ráo mà đào.
Lớp đất bề mặt thì mềm và xốp, hố móng phải đào sâu hơn, nhất định phải đào tới tầng đất cứng bên dưới thì nền móng của trạm kiều mới có thể vững chắc.
Càng xem, Tần Tranh càng nhíu mày chặt hơn.
Bên cạnh, có người thấy họ đứng bên miệng hố móng liền lớn tiếng gọi:
“Cô nương à, chớ có đứng sát mép thế, lại giẫm sập thêm chỗ huynh đệ bọn ta vất vả cả buổi sáng thì khổ!”
Cả đám người cười rộ lên, nhưng cũng không mang ác ý.
Tần Tranh khẽ gật đầu với Lâm Chiêu, Lâm Chiêu hiểu nàng đã xem xong, liền cao giọng nói:
“Ai mà thèm xem mấy cái hố đất xấu xí các người đào chứ! Ca, muội dẫn A Tranh tỷ đi đào cỏ đuổi rắn đây!”
Dứt lời liền kéo Tần Tranh len qua đám bụi rậm ở bờ cạn, Hỷ Tước lặng lẽ theo sau.
Đi được một đoạn khá xa, Lâm Chiêu mới dặn Hỷ Tước canh chừng, rồi ghé sát hỏi Tần Tranh:
“Thế nào? A Tranh tỷ có nhìn ra vấn đề gì không?”
Tần Tranh nhặt một cành cây, vẽ sơ sơ mấy hố móng trên mặt đất, rồi kẻ một đường thẳng đứng bên cạnh, nói:
“Trước khi hạ cọc, phải đào hố móng sâu thêm, ít nhất phải chạm đến tầng đất cứng bên dưới hai thước. Ngoài ra phải đào theo kiểu có dốc thoát nước hai bên, hố sâu bao nhiêu thì chân dốc dài bấy nhiêu, như vậy mới tránh sạt lở.”
Lâm Chiêu mắt sáng rỡ:
“Làm vậy là được sao?”
Tần Tranh chỉ vào đường thẳng vừa vẽ:
“Còn phải đào thêm một rãnh thoát nước rộng một thước. Rãnh này sau khi xây xong trạm kiều thì không dùng nữa, nhưng trước khi lấp đất vào hố móng thì rất quan trọng, nhờ nó mà đáy hố sẽ không bị đọng nước. Nếu đất bên hông hố quá ướt, cũng dễ bị sạt.”
Lâm Chiêu gật đầu liên tục, tuy chưa hiểu hết nhưng ánh mắt nhìn Tần Tranh tràn đầy ngưỡng mộ.
Còn có một vấn đề quan trọng nữa mà Tần Tranh chưa nói ra. Nếu mực nước có thể dâng cao, thì không thể xây trạm kiều cố định chiều cao. Nếu không, nước lên là trạm kiều bị ngập, thành công toi.
Điểm khác biệt lớn nhất giữa trạm kiều công nghiệp và trạm kiều thông thường là trạm kiều công nghiệp có thể thay đổi độ cao. Những trạm kiều nàng từng thấy đều là bằng khung thép, nhưng thời cổ không thể có sẵn nhiều thép như vậy, nên chỉ có thể dùng gỗ.
Chỉ cần áp dụng kết cấu mộng tenon để lắp ghép khung gỗ, thì việc làm trạm kiều với phần trụ và chân cầu có thể lắp ráp linh hoạt cũng không khó.
Tần Tranh thử giải thích với Lâm Chiêu về nguyên lý nâng hạ độ cao của trạm kiều, nhưng chỉ nói thôi thì thật sự khó hiểu, nàng đành hỏi:
“Người phụ trách xây trạm kiều bên Đông trại là ai?”
Kỹ thuật là do Tây trại phụ trách, nhưng người làm việc nặng là bên Đông trại, ắt phải có một người đứng đầu chỉ huy.
Lâm Chiêu đáp:
“Là Vương Bưu đại ca.”
Tần Tranh nói:
“Vậy muội tìm cơ hội, đem những điều ta vừa nói thuật lại cho hắn một lần. Nếu hắn hiểu thì tốt, còn không thì để ta giải thích kỹ hơn cho muội, rồi muội truyền đạt lại, nhớ là đừng nói là ý của ta.”
Lâm Chiêu gật đầu, lại ngượng ngùng nói:
“Là muội ngu ngốc quá.”
Tần Tranh xoa đầu nàng:
“Không phải muội ngốc, chỉ là trước giờ chưa từng tiếp xúc với việc này thôi. Ai cũng có sở trường riêng, muội luyện võ tốt như thế, không phải cô nương nào luyện mười năm tám năm cũng bằng được.”
Lâm Chiêu cười, lộ ra chiếc răng nanh nhỏ:
“A Tranh tỷ thật tốt, ca muội thì chỉ biết mắng muội ngốc!”
Tần Tranh bật cười:
“Chỉ cần muội biết hắn nói không đúng là được.”
Lâm Chiêu phấn khởi ưỡn ngực, cảm thấy tinh thần sảng khoái:
“Tất nhiên! Miệng chó nhà hắn chưa bao giờ nhả được lời hay!”
Hai huynh muội này đúng là cùng một ruột.
Tần Tranh vừa buồn cười vừa bất đắc dĩ:
“Đào xong cỏ đuổi rắn thì về thôi, chắc huynh muội muội cũng ăn xong rồi.”
Nàng ngồi xổm lâu đến mức tê chân, đứng dậy từ trong bụi cây, tiện thể nhìn ra mặt sông.
Chỗ này địa thế cao, Tần Tranh lập tức trông thấy nơi khúc quanh sông có một chiếc thuyền mui đen đang neo tại đó, mũi thuyền có một lão ngư đội nón lá đang câu cá.
Ai cũng biết núi Hai Đập là sào huyệt của sơn tặc, sao lại có người tới đây câu cá? Tần Tranh cảm thấy có gì đó không ổn, bèn hỏi Lâm Chiêu:
“Dưới núi thường có người đến đây câu cá sao?”
Lâm Chiêu quay lại nhìn theo hướng mắt nàng, thấy chiếc thuyền đó, sắc mặt liền thay đổi:
“Ca ca muội vừa cướp hàng của thủy phỉ, tám phần là bên kia có động tĩnh! Muội đi báo cho ca biết ngay!”
Xin cảm ơn bạn OLIVIA donate 20K! Xin cảm ơn bạn Le Thi Tuyet Ngan donate 10K.
Có thể một ngày nào đó bạn sẽ không thể truy cập được website Rừng Truyện vì các lý do bất khả kháng. Đừng lo, bạn vẫn có thể đọc tiếp bộ truyện mình yêu thích. Mời bạn tham gia nhóm Rừng Truyện trên Facebook!
Chúng mình đang hết sức cố gắng để duy trì hoạt động của trang web một cách ổn định. Nếu có thể xin vui lòng góp vài đồng ủng hộ bạn nhé!

cảm ơn group rừng và bản dịch giả đã làm bộ này, bộ này drop lâu rồi, mayyyy quá, xin đc donate ủng hộ.
Ủng hộ bộ này, cảm ơn dịch giả nha